CÁI
CƯỜI CỦA PHƯƠNG TÂY VỀ TRUNG QUỐC[1]
Nguyễn Hồng Hà & Nguyễn Nhị Hà
về trang chủ
“Những ai có thể
đoán đúng những gì sẽ xảy ra ở Trung Quốc
sau đây 20 năm thì người đó, qua tấm ảnh
ngày chịu lễ thánh của bé Lô-ren, cũng có thể biết
được hậu vận của em bé đó” (D,575)[2]
Phương Tây cười
về Trung Quốc như thế nào? Qua những nhận
xét châm biếm và những mẩu chuyển gây cười
đã in trong sách báo, chúng ta sẽ thấy những khía cạnh
khác nhau mà họ cười, học giễu cái xã hội
này. Đó là tình trạng lạc hậu, u mê của người
dân Trung Quốc (C,580), là những ông lang băm dốt nát
(C,1506), là cung cách buôn bán của anh cán bộ tranh thủ thực
hiện một dịch vụ mỗi khi được
đi công tác ở đâu đó (C,318), là tính cách keo bẩn
(C,574), là lối sinh đẻ vô tội vạ (C,579) của
người dân Trung Quốc… Nhưng trước hết,
đó là những đặc điểm mâu thuẫn, đầy
tính hài hước của xã hội Trung Quốc nghẹt thở,
là những tính cách giả dối, dốt nát, tráo trở và
thô bạo của những người lãnh đạo Trung
Quốc hiện nay, là sự lộn nhào của thời kỳ
“cách mạng văn hóa” với những tiểu tướng
hồng vệ binh.
Đặc điểm
và tính cách trên đây được thể hiện ở
ngay chính cách cười của những người lãnh
đạo Trung Quốc, những cái cười gượng
gạo, giả tạo. G.En-gô-di đã viết “Cái nụ
cười thường trực của Hoa Quốc Phong là
cái nhếch mép, là cái nụ cười ruồi” (A,199).
Phương Tây có nhiều
nhận xét châm biếm và xây dựng nhiều chuyện
cười, nhiều giai thoại đặc sắc về
Trung Quốc và nhân vật Mao. J. Vét-xít đã lấy giai thoại
“Vì sao Trung Quốc không tiêu diệt được đế
quốc Mỹ” để phân tích trong 8 trang một khía cạnh
của cơ cấu gây cười (E,123-131)
ù
Để gây cười,
người ta chỉ nêu hiên tượng, nhưng thông qua nội
dung, qua cơ sở lô-gích và nhất là qua cơ cấu ngôn
ngữ thể hiện hiện ra cái ý sâu xa mà câu chuyện
muốn nói lên. Cách dựng chuyện thường mang tính chất
trí tuệ, để người đọc, người
nghe tự rút ra kết luận châm biếm và bật lên tiếng
cười khoái trá.
“Trong các khách sạn
Trung Quốc, phòng nào cũng có một ti-vi, nhưng cái ti-vi ấy
nó nhìn bạn” (B,84). Cái ti-vi nhìn bạn, ti-vi quan sát bạn, thế nghĩa
là có một cái ống kính theo
dõi bạn, và bạn bị mất tự do. Có hàng loạt
ngạn ngữ và chuyện châm biếm chung quanh chủ
đề Trung Quốc không có tự do. Xin dẫn 3 ví dụ
: Phương Tây có câu “ở Pháp mọi thứ đều
được tự do thực hiện kể cả những
gì đã bị cấm. Ở Trung Quốc mọi thứ
đều bị cấm , kể cả những điều
đương nhiên phải được tự do” (B,70).
Để châm biếm, mỉa mai khẩu hiệu “Đại
phóng phê bình”, cần “phê bình từ trên xuống và phê bình từ
dưới lên”, người ta tạo ra câu chuyện
người cha giải thích cho con khái niệm đó thông qua
một hành động cụ thể, bố đứng
trên ban công đổ xô nước xuống đầu con
đang đứng phía dưới và cười “phê bình từ
trên xuống như thế đấy. Bây giờ con đứng
dưới té nước lên ban công cho ướt người
bố đi, con phê bình từ dưới lên đi!” (D,573).
Thế là ở Trung Quốc không ai dám ăn nói gì cả, thế
mới có chuyện “Một nha sĩ phương Tây sang
Trung Quốc làm ăn, suýt bị chết đói. Về
nước anh ta giải thích với mọi người rằng
tuy Trung Quốc có một tỷ người, nhưng anh ta
vẫn thất nghiệp vì ở đó có ai dám mở mồm, hé răng ra đâu!” (B,78).
Chủ đề về
“dã tâm xâm nhập, bành trướng và thôn tính các nước
khác” của Trung Quốc cũng được thể hiện
trong hàng loạt chuyện cười:
“Vợ một nhà ngoại
giao ở Bắc Kinh hỏi chồng:
- Mình muốn chúng ta có mấy
con?
- Ba
- Sao lại ba?
- Em không nhớ rằng
trên thế giới này, như người ta đã lưu ý,
cứ 4 đứa trẻ thì có một đứa Trung Quốc.
Anh chỉ muốn có 3 con vì không muốn đứa con thứ
tư là thằng Trung Quốc!” (C,578), (B,68).
Tất nhiên, không khỏi
có những chuyện mang nhiều đích khác nhau:
“Ngày ấy, thủ
tướng Liên Xô sang thăm Mỹ. Ních-xơn khoe là có một
máy tính điện tử cực kỳ hoàn hảo, có thể
tính được mọi chuyện trên đời.
- Đây nhé, tôi hỏi
nó : “Sau 50 năm nữa, nước Mỹ sẽ ra sao?”
Câu trả lời của
máy rất chi tiết về mọi mặt làm cho thủ
tướng Liên Xô rất thích thú. Ông bèn hỏi:
- Thế 50 năm nữa
Liên Xô sẽ ra sao?
Mấy phút sau, khi đọc
câu trả lời, thủ tướng Liên Xô cực kỳ
sửng sốt và rơi nước mắt.
- Thưa ngài sao vậy?
- Nó trả lời toàn bằng
chữ Trung Quốc” (B,81).
Bành trướng và chiến
tranh. Mạng người bị rẻ rúng. Các trang sử
Trung Quốc đã cho thấy điều này. Sau khi chiến
thắng Hit-le và Nhật hoàng, phương Tây có một ngạn
ngữ về phương pháp giành thắng lợi của
các nước phe đồng minh: “Người Anh né để chiến thắng,
người Pháp chạy để
chiến thắng, người Nga đánh để chiến thắng còn người
Trung Quốc chết để
chiến thắng”. Với Trung Quốc, điều này
được khái quát thành “chiến thuật biển
người”. Và phương Tây cười:
“Ngày ấy, Trung Quốc
gây chiến với Liên Xô.
Tuần lễ đầu,
Liên Xô bắt được triệu rưỡi tù binh
Trung Quốc.
Tuần lễ thứ
hai, bắt được 7 triệu.
Tuần lễ thứ
ba, bắt được 20 triệu. Lúc đó Đặng
Tiểu Bình đánh điện yêu cầu Liên Xô phải
đầu hàng.
Tuần lễ thứ
tư, Liên Xô bắt được 50 triệu tù binh.
Đặng bèn gửi tối
hậu thư: “Tại sao các anh chưa hàng vô điều kiện
ngay đi? Chúng tôi đã chiếm được một phần
tư nước các anh rồi đó!” (D,354, (C,572).
Một hệ quả tất
yếu của đường lối bành trướng và
chiến tranh là dân chúng điêu linh, đời sống
cơ cực:
“Hai người bạn
gặp nhau ở Thiên An Môn:
- Thế nào, đời
sống dạo này khá chứ?
- Tất nhiên, khá hơn
năm tới rất nhiều”.
(D,574).
Người ta cũng
châm biếm đường lối “thắt lưng buộc
bụng” của Trung Quốc: “Khi một máy bay Pháp gần tới
Bắc Kinh, phát thanh viên nói: “Quý khách chú ý, sắp tới sân
bay Bắc Kinh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, yêu cầu
quý khách thắt lưng (buộc
bụng) lại cho chặt nhé!”. Ngay lúc đó một thanh
niên, hẳn là hồng vệ binh, liền cảnh cáo phát
thanh viên: Yêu cầu cô không được nói theo kiểu chủ
nghĩa xét lại!” (C,1922).
Tất nhiên không ai tin
vào những lời hứa hão, mị dân, đầy tính cách
lừa bịp của Đặng Tiểu Bình về kế
hoạch “bốn hiện đại”. Rồi người
ta châm biếm:
“Đặng nói: Đất
nước chúng ta, tới 1985 thì:
Cứ 10 người
dân sẽ có một ô tô
Cứ 5 người dân
sẽ có một ti vi
Cứ 3 người dân
sẽ có một máy khâu.
Và cứ 2 người
dân sẽ có một…. cái quần!” (D,371).
ù
Có một số lượng
đáng kể giễu vào tệ sùng bái cá nhân, tính cách đổi
trắng thay đen của những người lãnh đạo
Trung Nam Hải. Những chuyện này khá đa dạng và tập
trung vào Mao:
- Thành tích nổi bật
trong cách mạng văn hóa là gì?
- Là diệt được
nhiều chuột!
- ???
- Vì người ta
đã nuôi hàng triệu con vật biết kêu “Meo-miu-miao-Mao!
Mao!” (B,71), (C,526).
Lại một câu đố
khác:
- Đố biết vì
sao trong khi cả thế giới thích ti vi màu thì các nhà lãnh
đạo Trung Quốc lại phản đối?
- ???
- Họ chỉ thích ti
vi đen trắng vì họ luôn luôn muốn biến đen
thành trắng và biến trắng thành đen” (B,1032)
Hơn thế nữa,
các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn bóp méo và xuyên tạc
lịch sử một cách trắng trợn. Chính vì thế mà
có giai thoại “Vì sao Mác tìm ra chủ nghĩa cộng sản?”
“Mao Trạch Đông gọi
một nhà tạc tượng tới:
- Chúng ta cần dựng
một tượng Các Mác khổng lồ ở quảng
trường Thiên An Môn.
- Thưa Mao Chủ tịch
ý kiến này thật sáng suốt (nhà tạc tượng thầm
nghĩ: kỳ lạ thật, sao hôm nay Mao Chủ tịch lại
nghĩ tới dựng tượng người khác?).
Thưa Mao Chủ tịch vĩ đại, chủ đề
bức tượng là gì ạ?
- Chủ đề là:
“Mác tìm ra chủ nghĩa cộng sản vì đã đọc…
Mao tuyển!” (B,74).
[1] Bài đăng trên báo Độc Lập, cơ quan trung ương Đảng Dân chủ Việt Nam, số 17 (1431) ngày 22.8.1984, tr.15
[2]
Ký
hiệu D, 575 là: D là ký hiệu tài liệu trích dẫn, còn
575 là số trang hoặc số mục truyện.
Tài liệu
trích dẫn
(A) G.
Elogozy: Về tính huy-mua (De
l’humour)
Nxb
Denoel, Paris 1979
(B) M.
và A. Guillois: Tự do, bình đẳng
và cười phá lên (Liberté, égalité et hilarité) Nxb. Fayard,
Paris, 1972.
(C) H. Nègres. Từ điển các chuyện
khôi hài (Dictionnaire des histoires drôles) Nxb. Fayard, Paris, 1978.
(D) Bách khoa toàn thư quốc tế
về cái cười (Encyclopédie Internationale du Rire) Nxb.
Mengès Paris, 1979.
(E) J.Vessis Cái hài cái cười và cái huy-mua (Le comique, le rire et l’humour). Nxb Lettres du monde, Paris, 1978.